Đậu nành là cây thực phẩm có giá trị rất lớn về nhiều mặt, nhất là về giá trị dinh dưỡng. Đạm là chất quan trọng nhất trong thành phần hóa học của đậu nành. Đạm trong đậu nành chứa tới 18 loại acid amin cần thiết cho cơ thể với các tỷ lệ gần giống như ở đạm động vật , do đó có thể thay thế đạm động vật trong bữa ăn hàng ngày. Ngoài đạm ra, đậu nành còn chứa một lượng chất béo rất cao, nhiều sinh tố và muối khoáng cần thiết cho cơ thể con người. Theo kết quả phân tích của các cơ quan y tế thì trong 100 g đậu nành có 37,6 g protein , 27 g đường , 16,5 g chất béo , 244 mg Ca , 6,8 mg Fe , 0,89 mg sinh tố B1 và sinh tố PP là 1,2 mg.
Tập quán trồng đậu nành của bà con nông dân ở ĐBSCL đã có từ lâu đời , nhưng trước đây chỉ giới hạn ở chân đất rẫy. Kỹ thuật trồng đậu nành trên đất rẫy cũng khác hẳn cách trồng trên đất trồng lúa . Một vài năm gần đây do hiệu quả kinh tế của việc trồng lúa vụ xuân hè không cao nên nhiều hộ gia đình đã thay thế vụ lúa xuân hè bằng một vụ đậu nành. Phần lớn diện tích trồng lúa ở các huyện Lấp Vò, Lai Vung (Đồng Tháp), Chợ Mới (An Giang), P.Phước Thới (Q.Ô Môn, Cần Thơ) được thay thế bằng cây đậu nành trong vụ xuân hè. Trong điều kiện thường xảy ra thiếu nước vào mùa nắng và dịch bệnh trên lúa phát triển nhiều (rầy nâu, bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá) thì việc chuyển đổi từ trồng lúa sang các loại cây màu là hoàn toàn hợp lý. Kinh nghiệm trồng đậu nành trên chân đất lúa của nông dân ở Lấp Vò, Lai Vung, Chợ Mới, Phước Thới cũng thật là độc đáo, có thể tóm tắt như sau:
Chuẩn bị đồng ruộng: Sau khi thu hoạch lúa đông xuân (khoảng tháng 2-3 dương lịch), dọn sạch cỏ bờ bao và cắt gốc rạ theo hàng, bề ngang của hàng chỉ cần 15-20 cm. Cứ 5m đào một rãnh sâu 30 cm, rộng 20 cm để giúp cho việc tưới tràn và thoát nước khi mưa nhiều. Bơm nước lên ruộng cho ngập một ngày đủ để đất mềm rồi rút hết nước đi.
Gieo hạt: Sau khi rút hết nước không cần xới đất, rải hạt trên mặt đất (không chọc lỗ), mỗi hốc 2-3 hạt, khoảng cách hàng là 40 cm, khoảng cách bụi là 10 cm, lượng giống dùng từ 60-70 kg/ha. Sau khi gieo hạt dùng rơm phủ kín mặt ruộng. Việc phủ rơm không những giữ được đất ẩm lâu giảm được chi phí tưới nước mà còn khống chế sự xì phèn từ lớp đất dưới lên, hạn chế được sự phát triển của cỏ dại , giữ cho lớp đất mặt không bị nén sau khi tưới. Ngoài ra, sau vụ đậu nành lớp rơm rạ sẽ là nguồn phân hữu cơ quí giá cho vụ sau. Cũng có một số bà con nông dân dùng phương pháp sạ lan như sạ lúa hoặc dùng máy sạ đậu theo hàng. Làm theo phương pháp này thì cần phải phát hết gốc rạ trước khi sạ, sau đó phủ lại rơm. Trong trường hợp sạ lan thì mật độ cây thường phân bố không được đều, chăm sóc, làm cỏ, bón phân cũng khó khăn hơn
Giống: Hiện nông dân vùng này trồng chủ yếu là giống đậu MTĐ176, thời gian sinh trưởng khoàng 70-75 ngày, thời gian trổ bông 28-30 ngày sau khi trồng, tỷ lệ trái cho 3 hạt cao, trọng lượng 100 hạt từ 16-17 g, năng suất hạt từ 2,8-3,0 tấn/ha.
Tưới nước: Việc phủ rơm rạ đủ giữ được độ ẩm cho cây nảy mầm. Ở giai đoạn đầu cây còn nhỏ thì cần phải tưới bằng thùng hoặc tưới máy có gắn bông sen. Sau khi cây được 15-20 ngày tuổi là có thể tưới tràn. Khi tưới tràn người dân thường lợi dụng con nước lớn cho nước vào ngập cả đám ruộng, mực nước trên ruộng từ 2-3 cm. Sau khi cho nước ngập 1-2 giờ là phải rút hết nước ngay, cần phải khơi các rãnh thoát nước để nước rút hết ngay trong ngày. Để nước đọng sẽ làm cây kém sinh trưởng hoặc sẽ chết. Chú ý đến giai đoạn gần thu hoạch thường có mưa nhiều cũng phải thường xuyên đi khơi nước, tránh để nước tồn đọng trong ruộng sẽ làm hư trái.
Làm cỏ: Sau khi rải hạt giống, dùng thuốc trừ cỏ Dual 720 EC để phun diệt cỏ suốt vụ. Liều lượng sử dụng là 1,0-1,2 lít/ha (pha 50-60 ml thuốc cho bình 16 lít, phun 2 bình cho 1.000 m2). Sau khi phun thuốc thì phủ rơm kín lại. Đến giai đoạn 10-15 ngày sau khi gieo, nếu có nhiều lúa rày (lúa mọc từ hạt rụng xuống đất khi thu hoạch lúa đông xuân) thì dùng thuốc Onecide hoặc Nabu để diệt, các loại thuốc này diệt tốt các loài cỏ hòa thảo và lúa rày.
Bón phân: công thức phân bón cho đậu nành thích hợp là 60:40:30 kg NPK/ha (tương đương 100-110 kg urea , 200 -250 kg sufer lân , 60 kg KCl). Phân lân được bón lót toàn bộ. Đạm được bón làm 3 lần: lần 1 lúc 7 ngày sau gieo 30 %, lần 2 lúc 15 ngày sau gieo 50 % và lần cuối 20 % lúc 30 ngày sau gieo. Phân KCl được bón hai lần: lần một cùng với lần bón đạm thứ 2,bón 50 %; lần hai bón trước khi cây trổ bông 50 % phần còn lại. Ngoài các loại phân đa lượng chính trên nếu có điều kiện bón thêm vôi sẽ làm cho cây đậu tốt hơn, lượng dùng khoảng 300-350 kg/ha (bón lót cùng với phân lân).
Phòng trừ sâu bệnh: Sâu là loại dịch hại quan trọng nhất tác động đến năng suất và phẩm chất đậu nành. Đậu nành có nhiều loại sâu phá hoại như: giòi đục thân, sâu đục trái, sâu ăn tạp, sâu xanh, sâu bông, bọ xít, rầy xanh. Phòng trừ các loại sâu bằng cách thăm đồng thường xuyên, nhất là từ khi cây đậu nành trổ hoa, kết trái. Khi vừa thấy bướm sâu xuất hiện là tổ chức diệt ngay. Các loại thuốc được dùng như Basudin 50 ND, Viphensa 60 EC, Cyperan 25 EC. Ngoài biện pháp dùng thuốc hóa học thì có thể dùng biện pháp luân canh cây trồng để cắt đứt nguồn thức ăn của sâu khi áp lực sâu trên đồng ruộng quá mạnh. Các bệnh chính trên đậu nành: bệnh rỉ, bệnh đốm vằn, bệnh thối trái, bệnh đốm vi khuẩn, bệnh tím hạt. Phòng trị các loại bệnh này bằng các loại thuốc như Zineb 75 WP, Rovral, dung dịch Boocđô 1 %.
Thu hoạch: khi 80-85 % số trái đã chuyển sang màu xám hoặc đen là hạt đã chín già, có thể thu hoạch. Không nên để chín quá, trái đậu sẽ nổ làm thất thoát hạt. Trước khi thu hoạch 5-7 ngày dùng dung dịch nước muối (pha 2 kg muối hạt trong bình 16 lít và phun cho 500 m2) để làm rụng bớt lá đậu nành. Dùng phương pháp này đem lại nhiều lợi ích là đỡ được công thu hoạch, bốc vác, công phơi và phần lớn lá đậu nành rụng xuống đất đã để lại cho đất lượng phân hữu cơ rất lớn. Hiện nông dân trồng đậu dùng máy tuốt lúa để ra hạt đậu nành. Đậu sau khi thu về phơi cho khô hết toàn bộ cây, quả. Phơi càng khô thì tỷ lệ hạt ra theo vỏ càng thấp và hạt càng sạch.
Hiệu quả kinh tế của vụ đậu nành cao hơn nhiều so với trồng lúa, theo anh Nguyễn Đức Dũng ở Tám Trung (Lấp Vò, Đồng Tháp) và anh Huỳnh Trung Hiền ở quận Ô Môn, TP.Cần Thơ thì vụ đậu năm ngoái đa số bà con nông dân đều đạt năng suất từ 8-10 giạ/công (2,6-3,0 tấn/ha). Giá đậu nành thương phẩm bán được 15.000 đồng/kg. Thu nhập từ 3,5-4,0 triệu đồng/công, trừ chi phí mỗi công còn lãi trên 2 triệu đồng. Ngoài số lãi do bán đậu thì bà con nông dân còn đỡ được một đợt bón phân cho lúa hè thu sau đậu do lượng đạm, phân hữu cơ do thân lá đậu để lại cho đất rất lớn.
Trước tình hình hạn hán, thiếu nước nghiêm trọng và dịch bệnh do trồng nhiều vụ lúa liên tục thì việc chuyển đổi sang trồng các loại cây màu như đậu nành, bắp lai, mè hoặc một loại cây trồng ít tốn nước nào khác là điều cần thiết. Tùy theo điều kiện canh tác, tập quán, thị trường mà bà con nông dân có thể lựa chọn để đem lại lợi ích cho mình.