Tưới cà phê
Hệ thống tưới tiết kiệm kết hợp bón phân qua nước được Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây Nguyên nghiên cứu cải tiến từ hệ thống tưới nước nhỏ giọt của Israel.
Qua thử nghiệm hệ thống tưới cho cà phê ở các tỉnh Đắk Lắk và Gia Lai đã cho kết quả khả quan, tiết kiệm hơn 20% lượng nước tưới và 20% lượng phân bón.
Cà phê thiếu nước.
Những năm qua ngành cà phê Việt Nam có tốc độ phát triển khá nhanh. Bên cạnh những thành công, ngành cà phê còn nhiều vấn đề bất cập và tồn tại cần sớm được khắc phục để đảm bảo cho phát triển bền vững.
Theo quy hoạch của Bộ NN-PTNT, đến năm 2020, diện tích cà phê Tây Nguyên giảm còn 447.000 ha. Như vậy nếu so với quy hoạch đến năm 2020 thì diện tích cà phê hiện đã vượt hơn 100.000 ha.
Đắk Lắk là tỉnh có diện tích cà phê lớn nhất nước với khoảng 200.000 ha, trong đó 180.000 cà phê kinh doanh cho thu hoạch.
Thế nhưng diện tích cà phê được tưới từ các công trình thủy lợi chỉ được 46.136 ha. Còn lại tưới bằng nước suối, giếng đào và giếng khoan, đang đối mặt với vấn đề thiếu nước ngầm dẫn đến chi phí SX cao, hiệu quả kinh tế thấp.
Đặc biệt, năm 2014, tỉnh Đắk Lắk có gần 40.000 ha cà phê thiếu nước tưới, trong đó nhiều diện tích bị mất trắng về sản lượng.
Tương tự, tỉnh Lâm Đồng có diện tích cà phê đứng sau tỉnh Đắk Lắk với trên 140.000 ha, nhưng cũng chỉ có 50.335 ha được tưới từ các công trình thủy lợi.
Trong khi đó, phần lớn các công trình thủy lợi phục vụ thâm canh cà phê thường thiếu nước tưới trong mùa khô, nên diện tích cà phê bị khô hạn ngày một tăng lên.
Còn tại tỉnh Gia Lai, 2 năm gần đây, người trồng cà phê cũng đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nước tưới, dẫn đến việc sụt giảm năng suất nghiêm trọng.
Theo quy hoạch đến năm 2020, diện tích cà phê của Gia Lai đạt trên 80.000 ha với sản lượng đạt 193.750 tấn. Vì vậy, tỉnh đang có những biện pháp nhằm giải quyết các khó khăn liên quan đến SX, trong đó vấn đề tưới nước là mối quan tâm hàng đầu.
Giải pháp tưới hiệu quả cho cây cà phê
Để giải quyết vấn đề thiếu nước tưới trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, cần có các biện pháp kỹ thuật tổng hợp trong việc quản lý nước tưới, đặc biệt là áp dụng các công nghệ tưới tiết kiệm, tiên tiến vào SX theo định hướng của Bộ NN-PTNT.
Từ năm 2010 cho đến nay, Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây Nguyên đã tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu kỹ thuật tưới nước tiết kiệm kết hợp bón phân qua nước cho cây cà phê”. Đây là một trong những bước đi quan trọng và cần thiết để SX cà phê bền vững.
Theo nghiên cứu của Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây Nguyên, SX cà phê ở Tây Nguyên có xu hướng tưới thừa so với lượng khuyến cáo kỹ thuật phổ biến ở mức 100 m3/ha/lần tưới.
Như vậy, với diện tích cà phê gần 500.000 ha thì mỗi năm, với trung bình 3 lượt tưới/ngày, ngành SX cà phê Tây Nguyên đã lãng phí trên 150 triệu m3 nước.
Cùng với việc tưới nước, phương pháp bón phân cho cà phê chủ yếu là vãi bằng tay thẳng vào đất. Biện pháp này tuy có ưu điểm là dễ làm và ít tốn công nhưng gặp phải những nhược điểm lớn là phân bị bốc hơi nếu không có mưa và bị rửa trôi khi gặp mưa lớn, dẫn đến hiệu suất sử dụng phân bón cho cây trồng không cao.
Tuy nhiên khi áp dụng mô hình tưới tiết kiệm kết hợp bón phân qua nước của Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây Nguyên, vấn đề lãng phí nguồn nước sẽ được giải quyết.
Bởi lượng nước tưới được phân phối trực tiếp đến từng cây và được điều chỉnh dễ dàng (60 – 100 lít/giờ), tức là lần tưới đầu chỉ cần tối đa 4 – 5 giờ để tưới đủ lượng nước cho cây ra hoa hiệu quả và tập trung.
Đây là một ưu điểm rất quan trọng của hệ thống này so với hệ thống tưới nhỏ giọt. Còn bón phân qua nước thông qua hệ thống ống dẫn nước cho phép bón dinh dưỡng một cách chính xác và đồng nhất cho những nơi đất ẩm ướt và tập trung nhiều rễ nhất.
Vì vậy, người trồng hoàn toàn có thể đáp ứng chính xác về số lượng cũng như nồng độ cần thiết của các loại dinh dưỡng cho cây cà phê theo từng giai đoạn sinh trưởng phát triển.
Ông R’Chăm Sui, làng Kép 1, xã Ia Mnông, huyện Chư Păh (Gia Lai), một hộ thực hiện mô hình tưới tiết kiệm kết hợp bón phân qua nước từ năm 2012 cho biết, áp dụng mô hình này gia đình ông giảm được áp lực về nước tưới so với cách tưới gốc trước đây, năng suất cà phê tăng hơn 30% so với vườn không áp dụng.
Đặc biệt là lợi nhuận từ SX tăng lên gấp đôi do tiết kiệm được tới 90% chi phí công lao động tưới nước và bón phân.
Ngoài ra, có thể chia bón phân ra thành nhiều đợt với lượng ít hơn cho từng đợt để tránh thất thoát phân bón do rửa trôi và bay hơi. Hơn nữa, việc bón này còn giúp nông hộ tiết kiệm được lượng phân bón từ 1,7 – 2,5 triệu đồng/ha và số ngày công.
Về nguyên tắc hoạt động hệ thống tưới tiết kiệm này, TS. Phan Việt Hà, Trưởng phòng Kế hoạch – Khoa học và Hợp tác quốc tế (Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây Nguyên) cho biết, nước trước khi dẫn đến cây cà phê sẽ qua một “hệ thống trung tâm” gồm đồng hồ đo lưu lượng nước dùng để theo dõi lượng nước tưới một cách chính xác, kiểm tra lưu lượng của máy bơm, lưu lượng tưới; bộ châm phân và hệ thống ống các cấp từ lớn đến nhỏ phân phối nước đều đến từng gốc cây.
Đặc biệt hệ thống ống được thiết kế cho từng tiểu vùng tưới với các van điều chỉnh phù hợp với công suất máy bơm để các béc phun đầu ra đạt lưu lượng 60 lít/giờ.
Hệ thống đường ống tưới được chôn ngầm giữa các hàng cà phê và được giãn vào gốc bởi ống nhỏ 6 ly có gắn 1 đầu béc phun với bán kính phun khoảng 80 cm, vừa đủ tưới cho diện tích bồn.
Bộ châm phân là thiết bị châm dinh dưỡng vào ống chính, giúp đưa dinh dưỡng trực tiếp đến vùng rễ của cây qua béc phun đầu ra.
Rễ được hấp thu đầy đủ dinh dưỡng để nuôi cây phù hợp cho từng giai đoạn sinh lý của cây, hạn chế việc bốc hơi làm mất đạm, tăng hiệu quả sử dụng phân bón.
“Với hệ thống này lượng nước cung cấp đáp ứng đúng lúc theo nhu cầu của cây, tiết kiệm nước tối đa, hạn chế lượng nước thất thoát không hiệu quả, phù hợp với điều kiện điều tiết nước trong mùa khô Tây Nguyên”, ông Hà chia sẻ.
Qua nghiên cứu cải tiến và lắp đặt thử nghiệm các hệ thống tưới nước tiết kiệm và bón phân qua nước ở nhiều vườn cà phê ở Đắk Lắk và Gia Lai cho thấy các mô hình tiết kiệm hơn 20% lượng nước tưới và lượng phân bón ít hơn 20% so với đối chứng, nhưng cây vẫn phát triển tốt và không bị ảnh hưởng tới năng suất.